Lưu trữ Blog

26/9/25

Biến đổi khí hậu và ô nhiễm không khí có thể đe dọa 30 triệu mạng sống mỗi năm vào năm 2100


 Biến đổi khí hậu và ô nhiễm không khí có thể đe dọa 30 triệu mạng sống mỗi năm vào năm 2100


Phương Hà - VAST, theo Phys.org

Tỷ lệ tử vong do ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan là một vấn đề lớn và dự báo sẽ tăng trong tương lai. Trong một nghiên cứu mới do Viện Hóa học Max Planck dẫn đầu, một nhóm nghiên cứu quốc tế đã phát hiện rằng, theo dự báo khả thi nhất, tỷ lệ tử vong hàng năm liên quan đến ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan có thể lên tới 30 triệu người vào cuối thế kỷ này.

 

Phân bố không gian của tỷ lệ tử vong hàng năm. Nguồn: Nature Communications (2024)

Nghiên cứu, dựa trên mô phỏng số học tiên tiến, chỉ ra một xu hướng đáng lo ngại: Số ca tử vong liên quan đến ô nhiễm dự kiến sẽ tăng gấp năm lần, trong khi tử vong do nhiệt độ có thể tăng gấp bảy lần, tạo ra nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng hơn so với ô nhiễm không khí đối với ít nhất 20% dân số thế giới. Các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào các dự báo từ năm 2000 đến 2090, được phân tích theo từng khoảng thời gian mười năm. Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên tạp chí Nature Communications.

"Vào năm 2000, khoảng 1,6 triệu người tử vong mỗi năm do nhiệt độ cực đoan, bao gồm cả lạnh và nóng. Vào cuối thế kỷ này, theo kịch bản khả thi nhất, con số này sẽ tăng lên 10,8 triệu, tức là tăng khoảng bảy lần. Đối với ô nhiễm không khí, tỷ lệ tử vong hàng năm vào năm 2000 là khoảng 4,1 triệu người. Đến cuối thế kỷ, con số này sẽ tăng lên 19,5 triệu, tức là tăng năm lần," Tiến sĩ Andrea Pozzer, trưởng nhóm nghiên cứu tại Viện Hóa học Max Planck ở Mainz và phó giáo sư tại Viện Síp, Nicosia, Síp, giải thích.

Nghiên cứu cho thấy sự khác biệt lớn về tỷ lệ tử vong trong tương lai giữa các khu vực. Nam và Đông Á được dự báo sẽ đối mặt với sự gia tăng mạnh nhất, do sự lão hóa dân số, với ô nhiễm không khí vẫn đóng vai trò quan trọng.

Ngược lại, ở các khu vực thu nhập cao như Tây Âu, Bắc Mỹ, Australasia và Châu Á-Thái Bình Dương, nguyên nhân tử vong liên quan đến nhiệt độ cực đoan được dự báo sẽ vượt qua tử vong do ô nhiễm không khí. Ở một số quốc gia trong các khu vực này, như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật Bản và New Zealand, sự chuyển biến này đã bắt đầu xảy ra.

Sự chênh lệch này có thể gia tăng, với nhiệt độ cực đoan trở thành nguy cơ sức khỏe quan trọng hơn ô nhiễm không khí tại các quốc gia ở Trung và Đông Âu (ví dụ: Ba Lan và Romania) và một số khu vực ở Nam Mỹ (Ví dụ: Argentina và Chile).

Vào cuối thế kỷ này, các nguy cơ sức khỏe liên quan đến nhiệt độ được dự báo sẽ vượt trội hơn các nguy cơ liên quan đến ô nhiễm không khí đối với một phần năm dân số thế giới, nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu toàn diện để đối phó với nguy cơ sức khỏe cộng đồng đang gia tăng này.

"Biến đổi khí hậu không chỉ là vấn đề môi trường; nó là một mối đe dọa trực tiếp đối với sức khỏe cộng đồng," Tiến sĩ Andrea Pozzer nói. 

"Những phát hiện này làm nổi bật tầm quan trọng của việc thực hiện các biện pháp giảm thiểu quyết đoán ngay từ bây giờ để ngăn ngừa mất mát sinh mạng trong tương lai," Jean Sciare, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khí hậu và Bầu khí quyển (CARE-C) của Viện Síp, người đóng góp quan trọng vào nghiên cứu này, chia sẻ thêm.

Mục tiêu xuất khẩu nông sản 100 tỷ USD: Góc nhìn từ Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo

 Mục tiêu xuất khẩu nông sản 100 tỷ USD: Góc nhìn từ Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo

Thanh Xuân - KTNT

LTS: Tại Hội nghị đối thoại với nông dân năm 2024, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đặt ra nhiệm vụ cho ngành Nông nghiệp: “Chúng ta phải đạt mục tiêu xuất khẩu nông - lâm - thủy sản 100 tỷ USD trong những năm tới”.

Để hiện thực hóa mục tiêu trên, theo các chuyên gia, việc xây dựng các vùng trồng và vùng nuôi đạt chuẩn quốc tế, ứng dụng công nghệ hiện đại, và tổ chức sản xuất khoa học là những yếu tố quyết định, giúp nông sản Việt có thể đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường toàn cầu. Đồng thời, tăng cường chuỗi liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân sẽ đảm bảo tính ổn định và bền vững cho ngành xuất khẩu.

Ngày 22/12/2024, Tổng Bí thư Tô Lâm ký ban hành Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Đây được cho là chiến lược nền tảng đưa đất nước vào kỷ nguyên mới. Tại Hội nghị toàn quốc về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia ngày 13/1/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số không chỉ là lựa chọn, mà là con đường sống còn. Trên cơ sở đó, Kinh tế nông thôn xây dựng loạt 3 bài “Mục tiêu xuất khẩu nông sản 100 tỷ USD: Góc nhìn từ Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo” nhằm làm rõ hơn vai trò của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.

Bài 1: Kết quả ấn tượng và những mô hình “Ruộng, vườn không dấu chân”

Thời gian qua, nhờ áp dụng mô hình “Ruộng, vườn không dấu chân”, nhiều nông dân trên cả nước đã làm chủ công nghệ và nắm bắt các xu thế mới để sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, thân thiện với môi trường, tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Kết quả ấn tượng

Ông Nguyễn Mai Dương, Cục trưởng Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), cho biết, 10 năm qua, KHCN đã góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp, với hơn 30% giá trị gia tăng trong sản xuất và 38% trong lĩnh vực giống cây trồng, vật nuôi

Nhờ ứng dụng KHCN vào sản xuất, Việt Nam đã chủ động được nhiều giống lúa có năng suất cao nhất trong các nước ASEAN, cao gấp 1,5 lần Thái Lan; năng suất hồ tiêu đứng đầu thế giới, cao su đứng thứ 2 thế giới...

Năng suất cà phê Việt Nam đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Brazil. Cá tra đạt 500 tấn/ha,cao nhất thế giới;  công nghệ nuôi tôm thẻ chân trắng giúp nâng cao sản lượng lên hơn 40 tấn/ha, đồng thời giảm 30-35% chi phí sản xuất so với phương pháp cũ.

Trong hơn 10 năm qua, cộng đồng các nhà khoa học đã công nhận 529 giống mới (393 giống cây trồng, 12 giống thủy sản; 82 giống cây lâm nghiệp và 42 giống vật nuôi). Các giống lúa Việt Nam chọn tạo đã được chuyển giao và ứng dụng trên phạm vi cả nước với diện tích khoảng 6,2 triệu hecta, chiếm gần 80% diện tích lúa cả nước.

Trong lĩnh vực thủy sản, hàng loạt giống thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá vược, cá chim vây vàng, cá nhụ, cá chiên, cá lăng, chạch chấu (có nơi gọi là chạch lấu), hải sâm, ốc hương và các giống cá nước lạnh đã được sinh sản nhân tạo thành công và làm chủ công nghệ nuôi. Giai đoạn 2016 - 2023, ngành thủy sản có 22 giống mới, 28 tiến bộ kỹ thuật, 13 sáng chế và 14 quy trình, giải pháp hữu ích đã được công nhận. 

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Phùng Đức Tiến cho rằng, KHCN và đổi mới sáng tạo ngày càng có vai trò quan trọng và đóng góp tích cực vào tăng trưởng nông nghiệp. Các nghiên cứu và kết quả tính toán theo các cách khác nhau đều cho thấy đóng góp của KHCN và đổi mới sáng tạo cho ngành nông, lâm, thủy sản là rất lớn, đạt mục tiêu trên 50%. Điều này phản ánh nông nghiệp Việt Nam đang chuyển đổi từ mô hình theo bề rộng sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu dựa vào KHCN và đổi mới sáng tạo.

Theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, nhiều nhóm sản phẩm chủ lực cấp quốc gia, cấp tỉnh có hàm lượng ứng dụng KHCN rất cao, được áp dụng từ khâu sản xuất giống, nuôi trồng, chế biến như: Tôm, cá tra… Nhiều doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ cao, tiên tiến ngang tầm khu vực và thế giới như: TH (sữa, chăn nuôi), Dabaco (chăn nuôi), Nafoods (trồng, chế biến trái cây), Masan (giết mổ, chế biến), Nam miền Trung (tôm)...

Giảm sức người

Mô hình “Ruộng, vườn không dấu chân” là đưa cơ giới hóa, tự động hóa vào sản xuất nông nghiệp, hướng tới nền nông nghiệp thông minh, giảm tối đa sức lao động của con người, thay vào đó là sử dụng máy móc, AI...

Đây là mô hình ứng dụng công nghệ cao, toàn bộ các công đoạn sản xuất từ làm đất, gieo mạ, cấy, phun thuốc trừ sâu đến thu hoạch đều được thực hiện bằng máy móc hiện đại, hạn chế tối đa sự tham gia trực tiếp của con người trên ruộng, vườn. 

Bằng cách áp dụng cơ giới hóa đồng bộ và tiến bộ kỹ thuật, mô hình này đã giúp nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm chi phí sản xuất, đồng thời thay đổi tư duy của người dân từ sản xuất manh mún, nhỏ lẻ sang nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn.

Cùng với đó, cơ giới hóa cũng giải quyết vấn đề thiếu hụt nhân lực làm nông nghiệp, thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) với nông dân, hướng tới nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại.

Nói về mô hình này, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội - bà Vũ Thị Hương cho biết, với sự hỗ trợ của thành phố, thời gian qua, các hộ nông dân, HTX đã đẩy mạnh áp dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.

Không những vậy, việc áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất nông nghiệp còn góp phần thay đổi tư duy sản xuất của người dân, giảm hao tổn trong khâu thu hoạch, đẩy mạnh quá trình thâm canh, từng bước hình thành vùng sản xuất lúa, rau màu hàng hóa tập trung, cánh đồng mẫu lớn, khắc phục tình trạng bỏ ruộng của nông dân và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm cho nông dân.

Hà Nội hiện có 5.676 máy làm đất, 990 máy phun thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), 877 máy gặt đập liên hợp... Đến nay, cơ giới hóa trong khâu làm đất của thành phố đạt 100%. Diện tích lúa được thu hoạch bằng máy đạt 90%.

Những năm qua, nhiều tỉnh, thành phố đã khuyến khích nông dân, HTX cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa. Thực tế đã chứng minh, cơ giới hóa đạt đa lợi ích, giúp tăng năng suất, giảm chi phí đầu vào, tiết kiệm giống, thuốc BVTV, giảm tổn thất sau thu hoạch, bảo đảm tính thời vụ…

Nhờ mạnh dạn đầu tư máy móc và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, gia đình ông Phạm Ngọc Hữu ở thôn Hoàng Chung, xã Đồng Ích (Lập Thạch - Vĩnh Phúc) đã tích tụ ruộng đất để sản xuất 2ha lúa mỗi vụ. Ông chia sẻ: “Nếu như trước đây, cấy 4-5 sào (1 sào Bắc Bộ = 360m2) ruộng phải huy động cả gia đình, thì nay mọi công việc đã có máy móc làm thay, giúp giảm công lao động, tiết kiệm chi phí, mà năng suất và chất lượng nông sản lại tăng cao”.

Vụ đông xuân 2023-2024, Tổng Công ty Sông Gianh đã liên kết với ông Trần Duy Khánh ở xã Xuân Thủy (Lệ Thủy - Quảng Bình) cùng Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Quảng Bình thực hiện mô hình sản xuất lúa chất lượng cao ứng dụng cơ giới hóa gắn với bao tiêu sản phẩm trên diện tích 22ha.

Với ruộng lúa trên, ông Khánh chỉ thuê 3 nông dân trên địa bàn phụ giúp gieo trồng với thù lao 300.000 đồng/ngày; mọi việc còn lại đều do máy móc làm. Sau khi máy cày – bừa làm xong, máy bay không người lái (drone) của Tổng Công ty Sông Gianh cất cánh trên cánh đồng để bón phân, gieo sạ.

“Chỉ riêng ứng dụng máy bay không người lái đã giúp tôi tiết kiệm 20% chi phí, thay thế cho 50 nhân công lao động. Với diện tích 22 ha, máy bay chỉ thực hiện trong 1 ngày đã hoàn tất các công đoạn bón phân và gieo giống”, ông Khánh chia sẻ.

Không chỉ trên cây lúa, tại huyện Quốc Oai (Hà Nội), nắm bắt xu hướng sản xuất mới, Trạm Khuyến nông huyện đã có nhiều hoạt động thúc đẩy cơ giới hóa khâu gieo trồng, chăm sóc rau màu, cây ăn quả. Ông Phan Viết Vinh (xã Sài Sơn) chia sẻ, với 3 mẫu (1 mẫu Bắc Bộ = 3.600m2) trồng bưởi và ổi, nếu làm đất bằng tay để tạo luống sẽ phải mất 30 - 35 công lao động, nhưng từ khi có máy làm đất, chỉ mất 3-4 ngày, tiết kiệm 3-4 triệu đồng chi phí...

Thay đổi tư duy sản xuất

Theo Phó Giám đốc HTX Dịch vụ nông nghiệp Phú Chuyên, xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên – Hà Nội) Nguyễn Văn Thông, vụ mùa năm 2024, HTX gieo cấy 245ha lúa. HTX đã đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp, với 100% diện tích sử dụng máy bay không người lái phun thuốc BVTV; tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất đạt 100%; tỷ lệ diện tích lúa cấy bằng máy đạt từ 70-80%.

“Lúa cấy bằng máy có mật độ đồng đều, ruộng lúa thông thoáng, ít sâu bệnh, nên giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và năng suất lúa cũng cao hơn 10 - 15% so với cấy bằng tay. Ngoài ra, việc sử dụng máy cấy còn giúp các xã quy hoạch được vùng sản xuất gieo cấy cùng một loại giống, cùng trà vụ, thuận lợi cho việc chăm sóc, thu hoạch, từng bước hình thành các vùng sản xuất lúa hàng hóa tập trung, góp phần thay đổi tập quán sản xuất lúa nhỏ lẻ”, ông Thông cho hay.

Giám đốc HTX Nông nghiệp Đồng Tiến (Ứng Hòa - Hà Nội) Nguyễn Văn Đại cho biết, vụ mùa năm 2024, toàn xã cấy hơn 200ha. Đến nay, tỷ lệ khâu làm đất, gặt lúa trên địa bàn đạt 100%; tỷ lệ gieo cấy khoảng 20%. Đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp đã giúp giảm bớt sức lao động cho nông dân, khắc phục tình trạng thiếu lao động chính vụ, rút ngắn thời gian làm đất, gieo cấy, thu hoạch, tiết kiệm chi phí, tăng năng suất, góp phần giảm tổn thất sau thu hoạch.

Gia tăng lợi nhuận 

Trên thực tế, mô hình “Ruộng, vườn không dấu chân” không chỉ giảm chi phí vật tư đầu vào mà còn giúp nông dân tăng lợi nhuận.  

Năm 2024, Trung tâm Khuyến nông Bình Thuận xây dựng mô hình “Trình diễn sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP hoặc tương đương –  Cánh đồng không dấu chân” tại các xã Sùng Nhơn (huyện Đức Linh) và xã Bắc Ruộng (huyện Tánh Linh) với tổng diện tích 45ha. Trong đó, xã Hùng Nhơn 20ha với 53 hộ tham gia, xã Bắc Ruộng 25ha với 29 hộ tham gia.

Các hộ dân tham gia được hướng dẫn sản xuất lúa áp dụng cơ giới đồng bộ bằng máy sạ cụm, phun thuốc BVTV bằng máy bay không người lái, tưới nước ngập - khô xen kẽ. Đồng thời, tăng cường sử dụng phân hữu cơ, thuốc BVTV sinh học.

Ông Ngô Thái Sơn, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Khuyến nông Bình Thuận, cho biết, thực hiện mô hình này, bà con được hỗ trợ lượng giống 12kg/1.000m2. Áp dụng sạ cụm trong sản xuất, bà con chỉ sạ với lượng giống 10kg/1.000m2, giảm 50 – 60% lượng giống sạ so với sản xuất thông thường. Đồng thời, áp dụng quy trình tưới tiết kiệm ướt - khô xen kẽ “5 khô – 5 ướt”.

Qua tổng kết mô hình thấy nông dân giảm được lượng giống từ 50 - 60%, năng suất tăng hơn 3 tạ/ha so với ruộng ngoài mô hình. Hơn nữa, các mô hình đã tạo sự chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động của nông dân. Từ đó giúp họ hiểu rằng, trong sản xuất, kinh doanh, chất lượng sản phẩm mới là điều kiện tiên quyết và sống còn để duy trì và phát triển.

Một số nông dân cho biết, tham gia mô hình đã giúp sản xuất lúa giảm được lượng phân bón hóa học và số lần phun thuốc BVTV đáng kể.

Theo ông Phan Văn Năm ở thôn 2, xã Hùng Nhơn, với diện tích 6.500m2, ngoài bón lót bằng phân hữu cơ được Nhà nước hỗ trợ, ông đã bón thúc 3 lần phân với chi phí hơn 2,8 triệu đồng và chỉ phun thuốc BVTV 1 lần/ vụ với chi phí 580 ngàn đồng. Tổng đầu tư hơn 18,5 triệu đồng. Với năng suất lúa tươi đạt gần 62 tạ/ha, tăng hơn 3 tạ/ha so với ngoài mô hình, trừ chi phí, ông thu lợi nhuận hơn 20 triệu đồng/ha.

Đặc biệt, lúa sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP hoặc tương đương được thương lái thu mua với giá cao hơn 200 - 400 đồng/kg, thúc đẩy sự kết nối giữa sản xuất với thị trường, mang lại nhiều lợi ích và thu nhập cao hơn cho nông dân, từng bước xây dựng thương hiệu, góp phần bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng.

Tương tự, từ năm 2020 đến nay, tỉnh Sóc Trăng đã xây dựng mô hình Cánh đồng thông minh ở huyện Châu Thành. Dự án được triển khai với sự phối hợp của nhiều bên, trong đó Trường Đại học Cần Thơ là đơn vị chuyển giao công nghệ.

Trong giai đoạn 1, mô hình được triển khai trên diện tích 523ha, đơn vị trực tiếp canh tác là HTX Phước An với 295 xã viên. Các giống lúa được chọn canh tác đều là lúa thơm đặc sản, chất lượng cao theo tiêu chuẩn VietGAP.

Mô hình áp dụng cơ giới hóa và công nghệ 100% trong mọi khâu canh tác, mọi thửa ruộng đều có mã QR quản lý riêng.

Trước nguy cơ xâm nhập mặn, cánh đồng của HTX đã lắp những thiết bị quan trắc ở các cửa cống, máy tính sẽ tự động đóng mở nước để tưới tiêu cho ruộng lúa dựa trên các chỉ số môi trường. Với việc áp dụng công nghệ vào quá trình canh tác, gia đình xã viên Lâm Phương Tùng đã giảm được hơn 50kg giống/ha, giảm khoảng một nửa chi phí bơm nước, tiết kiệm được tiền phân thuốc.

Chuẩn hóa nông sản từ khâu sản xuất

Theo Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Đồng Nai, tỉnh có khoảng 270.000ha sản xuất nông nghiệp. Đến nay, ngành trồng trọt đã hình thành 300 vùng sản xuất tập trung với một số cây lâu năm có diện tích lớn như: Cao su 44.000ha, điều 30.000ha, hồ tiêu 12.000ha, cà phê 7.000ha, chuối 13.000ha, xoài 12.000ha, bưởi 10.300ha, chôm chôm 9.100ha, sầu riêng 11.000ha, mít 9.000ha... Đây là điều kiện thuận lợi để tiếp cận tiến bộ kỹ thuật, ứng dụng cơ giới hóa vào sản xuất.

Được thành lập vào tháng 5 năm 2022, Tổ hợp tác (THT) sầu riêng ấp 7 (xã Sông Ray, huyện Cẩm Mỹ) gồm 23 hộ nông dân chuyên sản xuất sầu riêng với quy mô gần 34ha, trong đó hơn 15ha đã được cấp mã số vùng trồng. Sản phẩm chính của THT là sầu riêng Dona, sầu riêng Ri6, sản lượng khoảng 600 tấn/năm.

Khi mới thành lập, Ban điều hành THT đã nhận thức được việc đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp là vấn đề hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến năng suất cây trồng, giảm công lao động, giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho nhà vườn.

Với quyết tâm đó, trong 2 năm qua, sản xuất sầu riêng ở THT sầu riêng ấp 7 đã đạt được mức độ cơ giới hóa cao. Đến nay, khâu làm đất đã được cơ giới hoá 90 - 95% trong việc đào bồn, dọn cỏ, thiết kế vườn. Ở khâu tưới tiêu, 80% diện tích sản xuất được tưới bằng hệ thống tưới nước tiết kiệm. Trong khâu chăm sóc, 100% diện tích của THT đã được phun thuốc BVTV bằng máy bay không người lái.

Qua đánh giá, máy bay không người lái giúp THT tiết kiệm được công lao động, an toàn cho người sản xuất vì không phải tiếp xúc trực tiếp với thuốc BVTV, tiết kiệm thuốc BVTV, hiệu quả phun thuốc đáp ứng yêu cầu của các nhà vườn mà chi phí không tăng so với sử dụng công lao động để phun thuốc theo kiểu truyền thống trước đây.

Đại diện Sở Nông nghiệp và PTNT Đồng Nai cho biết, cơ giới hóa đã góp phần nâng cao năng suất lao động, giảm thất thoát sản phẩm, giảm mức độ khai thác tài nguyên, góp phần phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp, từng bước thực hiện tự động hóa, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất.

Có thể nói rằng, mô hình này mang lại hiệu quả vượt trội nhờ vào ba yếu tố chính: giảm chi phí sản xuất, tăng năng suất và chất lượng nông sản, đồng thời thúc đẩy sự liên kết trong sản xuất và tiêu thụ.

Từ đó, mô hình đã góp phần phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghệ cao. Đồng thời, tạo nền tảng vững chắc hướng đến sản xuất hàng hóa, thực hiện thành công mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững,  tạo tiền đề chế biến sâu trong sản xuất và là nền tảng để xây dựng các sản phẩm OCOP, tạo ra giá trị gia tăng cho các sản phẩm hàng hóa hướng tới xuất khẩu

Trồng trọt góp 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của nông nghiệp Việt Nam

 Trồng trọt góp 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của nông nghiệp Việt Nam

PHÚC VĂN - SGGP.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, những năm qua, ngành trồng trọt đóng góp khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Nhiều mặt hàng chủ lực như lúa gạo, rau quả, cây công nghiệp… đã khẳng định được vị thế trên thị trường quốc tế. Việc ứng dụng công nghệ cao, phát triển nông nghiệp hữu cơ cũng giúp nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm. Đặc biệt, cả nước đã hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hóa tập trung với quy mô lớn, áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại.

Tuy nhiên, chủ trì cuộc họp ngày 8-3 về những định hướng quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển lĩnh vực trồng trọt và bảo vệ thực vật, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy đánh giá, ngành trồng trọt vẫn đối mặt với nhiều thách thức.

Những thách thức được chỉ ra như: Giá vật tư đầu vào tăng cao, biến đổi khí hậu ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất, trong khi sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó, vấn đề ô nhiễm môi trường, lạm dụng hóa chất bảo vệ thực vật cũng là những rào cản lớn. Những yếu tố này làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam, đòi hỏi ngành phải có những chiến lược phát triển bài bản hơn.

Theo Bộ trưởng Đỗ Đức Duy, để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% vào năm 2025, ngành nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt và bảo vệ thực vật, cần duy trì mức tăng trưởng gần 4% - một chỉ tiêu đầy thách thức. Vì vậy, việc rà soát lại chiến lược phát triển và có các giải pháp đột phá là vô cùng cần thiết. Một trong những giải pháp quan trọng là phát triển chuỗi liên kết sản xuất.

Bộ trưởng nhấn mạnh, chỉ khi tăng cường hợp tác và liên kết sản xuất, ngành trồng trọt mới có thể tạo ra những đột phá và phát triển bền vững, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế.

Bộ trưởng Đỗ Đức Duy dẫn chứng về thành công của một số doanh nghiệp ở tỉnh Sóc Trăng. Chỉ với hai doanh nghiệp liên kết chặt chẽ trong chuỗi sản xuất, địa phương này đã xuất khẩu 2 triệu tấn gạo, đóng góp đáng kể vào tổng kim ngạch xuất khẩu 8 triệu tấn của cả nước. Điều này cho thấy, nếu có sự liên kết mạnh mẽ giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu, ngành trồng trọt hoàn toàn có thể đạt được sự phát triển bứt phá.

Bên cạnh việc hình thành chuỗi liên kết, Bộ trưởng cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong nông nghiệp. Những mô hình sản xuất thông minh, áp dụng công nghệ cao không chỉ giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn đảm bảo truy xuất nguồn gốc, tăng tính cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Phát triển nền kinh tế tuần hoàn trong ngành trồng trọt cũng là một hướng đi quan trọng. Bộ trưởng Đỗ Đức Duy cho rằng, chất thải nông nghiệp là một nguồn tài nguyên quý giá nhưng hiện nay chưa được khai thác hiệu quả. Việc xây dựng hệ thống quản lý và khung pháp lý phù hợp sẽ giúp tối ưu hóa sử dụng tài nguyên, tạo ra giá trị gia tăng cho ngành.

Bộ trưởng đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách, đồng thời sớm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn phục vụ công tác quản lý nhà nước. Cần theo sát diễn biến thời tiết, thị trường để điều chỉnh kế hoạch sản xuất kịp thời, giúp ngành trồng trọt thích ứng linh hoạt và đạt hiệu quả cao nhất.

Vi nhựa trong đất nông nghiệp: Nhiều câu hỏi cần được trả lời

 Vi nhựa trong đất nông nghiệp: Nhiều câu hỏi cần được trả lời

Nguyễn Minh Kỳ - Tiasang

Việt Nam có nên giám sát tình trạng ô nhiễm vi nhựa trong đất nông nghiệp không? Nếu có thì cần phải làm gì trước tiên?

 

Hình 1. Ô nhiễm vi nhựa trong đất nông nghiệp

 

Một hiện trạng đáng quan tâm 

Có lẽ, cho đến hiện nay, không ai là không biết về chất thải nhựa và vi nhựa. Nghiên cứu gần đây đã làm nổi bật tính phổ biến toàn cầu của chất thải nhựa, các mảnh vụn nhựa, bao gồm các hạt vi nhựa, trên khắp hành tinh. Hầu hết các sản phẩm nhựa được làm từ nhựa không phân hủy, chẳng hạn như polyethylene (PE), polypropylene (PP), polyvinylchloride (PVC), polystyrene (PS), và polyethylene terephthalate (PET), và polyurethane (PUR) và phải mất hàng trăm năm để những loại nhựa này có thể được phân rã trong môi trường tự nhiên. Quá trình phong hóa khiến chúng trở thành các hạt nhựa siêu nhỏ, vi nhựa với kích thước từ 1μm đến 5 mm. 

Trước đây, chúng ta thường quan tâm đến chất thải nhựa đại dương và vi nhựa trong các dòng chảy. Tuy nhiên trong một vài năm gần đây, nhiều câu hỏi khác tiếp tục dấy lên mà một trong số đó là liệu vi nhựa trong đất, đặc biệt là đất trồng trọt thì sao? Rõ ràng là một khi đã xâm nhập vào đất, sự tích tụ của chúng có thể gây ra một số tác động bất lợi đến môi trường đất và hệ sinh thái. 

Đó là một trong những thôi thúc cộng đồng khoa học trên khắp thế giới nghiên cứu về vi nhựa trong đất, đặc biệt là đất nông nghiệp, để tìm câu trả lời một cách thấu đáo. Các nhà nghiên cứu đã cảnh báo tác động của vi nhựa trong đất, trầm tích khi phát hiện ra ô nhiễm vi nhựa trong đất cao hơn so với ô nhiễm vi nhựa đại dương – ước tính gấp từ bốn đến 23 lần, phụ thuộc vào môi trường. Bởi trên thực tế từ 80 đến 90% vi nhựa từ chất thải nhựa tồn tại trong bùn mà bùn thường được dùng để bón cho các cánh đồng như một dạng phân bón. Điều đó có nghĩa là hàng trăm tấn vi nhựa có mặt trong đất mỗi năm. 

Và họ cũng tìm thấy các câu trả lời ban đầu trên những đồng bằng châu thổ quan trọng ở châu Á, nơi cung cấp một lượng lương thực thực phẩm như lúa gạo cho châu lục này và toàn cầu. Đó là có vi nhựa, bao gồm PS, PP, ethyl vinyl acetate (EVA), PVC, latex, cellulose acetate (CA), acrylonitrile butadiene styrene (ABS), high-density polyethylene (HDPE) và low-density polyethylene (LDPE), có trong đất nông nghiệp ở Bangladesh, với hàm lượng 2,13 × 104 hạt/kg. Điều này cho thấy tình trạng ô nhiễm vi nhựa đã bắt đầu lan rộng trong đất nông nghiệp. Ở Ấn Độ, hạt nhựa rất phổ biến trong lớp phủ thực vật và đất canh tác, xuống đến lớp đất ở sâu tầm 21–30 cm vẫn chiếm 36,9%. Trong các cánh đồng trồng trọt ở Trung Quốc, vi nhựa chủ yếu bao gồm PE và PP có nồng độ 0,54 mg/kg. Hầu hết các vi nhựa này lớn hơn 100 µm, cho thấy sự phổ biến của các mảnh nhựa lớn ở trong đất. 

Châu Phi cũng không ngoại lệ. Tại các điểm nóng trong đất nông nghiệp Tunisia được xác định có nồng độ cao, các phát hiện cho thấy số lượng vi nhựa khác nhau, dao động từ 13,2 ± 0,9 hạt/kg đến 852,2 ± 124,2 hạt/ kg, chủ yếu bao gồm các hạt có kích thước nhỏ (0,22–1,22 μm). Đáng chú ý, polybutylene adipate terephthalate (PBAT) và PE nổi lên là các loại vi nhựa chiếm ưu thế hiện có.

 Khi vi nhựa đã xâm nhập vào đất, sự tích tụ của chúng có thể gây ra một số tác động bất lợi đến môi trường đất và hệ sinh thái.

Tuy nhiên, không chỉ các quốc gia đang phát triển mới phải lo ngại về vi nhựa trong đất nông nghiệp. Ở Vương quốc Anh, từ năm 1997 đến năm 2005, có một kết quả đáng ngạc nhiên là ô nhiễm liên quan đến nhựa đã tăng 350%, tiếp theo là mức tăng thêm 183% từ năm 2010 đến năm 2022. Tại sao lại dẫn đến hiện trạng này? Sự tích tụ ô nhiễm nhựa trong các hệ thống nông nghiệp ở Vương quốc Anh tăng theo thời gian và việc sử dụng phân bón nông nghiệp cũng góp phần vào xu hướng này. Mặt khác, trong hệ sinh thái nông nghiệp, rác thải nhựa và lớp phủ nhựa là tác nhân đáng kể dẫn đến sự tích tụ của vi nhựa trong đất. Các nghiên cứu cho thấy sự gia tăng đáng kể về mức độ vi nhựa theo thời gian ở những khu vực thường xuyên áp dụng màng phủ, cụ thể, mức độ trong đất ruộng trong 5, 15 và 24 năm phủ liên tục được xác định 80,3 ± 49,3, 308 ± 138,1 và 1075,6 ± 346,8 hạt/kg.

Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á có mức tiêu thụ nhựa cao. Vậy tình trạng ô nhiễm vi nhựa trong đất nông nghiệp trên khắp Việt Nam như thế nào? Có rất nhiều nguyên nhân khiến cho đến bây giờ, các nghiên cứu đánh giá rác thải nhựa và vi nhựa trong đất nông nghiệp ở nước ta còn rất hạn chế và rải rác. Ví dụ, một nhóm nghiên cứu ở trường ĐH Tài nguyên và Môi trường và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam cho thấy mật độ vi nhựa trong đất nông nghiệp dao động từ 1700 hạt/kg đến 38.800 hạt/kg, trung bình là 11716 ±10726 hạt/kg. 

Các nhà khoa học cũng phát hiện thấy vi nhựa ở vùng ngoại thành Hà Nội  với hàm lượng dao động từ 494 ± 292 hạt/kg đến 1031 ± 379 hạt/kg trọng lượng khô. Về hình dạng, các hạt dạng mảnh chiếm phần lớn vi nhựa được tìm thấy trong đất (65% – 86% tổng số vi nhựa). Ngoài ra, 15 loại polyme vi nhựa đã được xác định trong các mẫu đất, trong đó PET là polyme phổ biến nhất với 38%, tiếp theo là nhựa urê-formaldehyd với 15% và nylon với 13%. 

Khi nhìn vào quá trình phân rã từ nhựa thành vi nhựa thông qua cơ chế phong hóa cơ học, quang hóa, tác động của nhiệt độ và vi sinh vật (hay còn gọi phân hủy sinh học), có thể thấy quá trình này thường diễn ra rất chậm và càng khiến vi nhựa tích tụ sâu trong đất, ảnh hưởng đến cấu trúc đất và hệ sinh thái vi sinh vật. Kết quả là vi nhựa trở thành một nguồn ô nhiễm dai dẳng trong môi trường nông nghiệp.

Làm gì để hạn chế vi nhựa?

Có một câu hỏi đặt ra là các mảnh vi nhựa này từ đâu tới? Liệu nguồn gốc của chúng có khác biệt so với các loại vi nhựa trong đất ở các đồng bằng khác trên thế giới không? Nếu nhìn vào kết quả của nhóm nghiên cứu ở trường ĐH Tài nguyên và Môi trường và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam có thể tiên lượng được một phần: các hạt nhựa màu đen chiếm ưu thế, tiếp theo là màu trắng, tím, đỏ và xanh lam. Về cơ bản, màu sắc của vi nhựa phản ánh nguồn gốc và mức độ phân hủy của chúng trong môi trường. Vi nhựa màu đen thường bắt nguồn từ săm/lốp xe, hoặc màng phủ nông nghiệp bị phong hóa, trong khi màu trắng có thể đến từ bao bì phân bón hoặc túi nhựa. Các hạt màu tím, đỏ và xanh lam có thể liên quan đến sợi vải tổng hợp hay dây thừng. Sự phân bố màu sắc này cho thấy vi nhựa trong đất nông nghiệp có nguồn gốc đa dạng và bị tác động bởi các hoạt động nông nghiệp và sinh hoạt của con người. Tất nhiên, để đi đến một kết luận chính xác về nguồn thì chúng ta vẫn cần tiến hành nghiên cứu cụ thể hơn. 

Hình 1 cho thấy các nguồn chính gây ô nhiễm vi nhựa trong hệ thống đất nông nghiệp. Đánh giá tổng quan trước đây của nhóm tác giả Hoang, et al. trong đất nông nghiệp cho thấy các sản phẩm nhựa được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động canh tác (ví dụ: phân bón gốc polyme, sử dụng chất thải rắn và phân hữu cơ, tưới tiêu nước thải và lớp phủ/màng nhựa) và lắng đọng từ khí quyển. Có nhiều công đoạn trong quá trình trồng, chăm sóc và thu hoạch sử dụng các loại vật liệu hoặc sản phẩm làm bằng nhựa. Đồng thời, các loại rác thải nhựa từ các hoạt động con người cũng có thể xâm nhập vào vùng đất canh tác. Do đó, việc gây ra sự ô nhiễm nhựa và vi nhựa trong đất nông nghiệp không thể tránh khỏi.

Mật độ vi nhựa trong đất nông nghiệp của Việt nam dao động từ 1700 hạt/kg đến 38.800 hạt/kg, trung bình là 11716 ±10726 hạt/kg. 

Vậy ô nhiễm nhựa và vi nhựa trong đất có thể dẫn đến hệ quả gì? Một điều dễ nhận thấy là với chất thải nhựa đều khiến cả động vật và thực vật đều bị ảnh hưởng, ví dụ như các loài động vật đối mặt với nguy cơ nuốt phải hoặc bị mắc kẹt. Bên cạnh đó, nhựa còn có thể phát ra các chất hóa học độc hại, ảnh hưởng đến sinh quyển và con người khi nhựa và chất độc hại xâm nhập vào các chuỗi thức ăn. Với vi nhựa, có thể vấn đề còn lớn hơn nữa bởi nhìn chung với kích thước nhỏ, diện tích bề mặt riêng lớn và đặc tính kỵ nước giúp vi nhựa có khả năng hấp phụ đáng kể đối với nhiều chất gây ô nhiễm khác nhau, bao gồm kháng sinh, thuốc trừ sâu, kim loại nặng, polychlorinated biphenyls (PCBs) và polycyclic aromatic hydrocarbons (PAHs). Vi nhựa trong đất nông nghiệp có thể gây ra những phản ứng đáng kể trong cây trồng, ảnh hưởng đến cả số lượng và chất lượng sản xuất nông nghiệp. Chúng có thể làm tắc nghẽn lỗ chân lông của rễ, làm giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng và nước từ đất của cây. Những phát hiện gần đây nhấn mạnh sự hiện diện/xảy ra phổ biến và lâu dài của các mảnh vụn vi nhựa trong hệ sinh thái đất, cùng với những tác động có hại của chúng đối với khả năng sinh sản, tăng trưởng, thói quen ăn uống, tỷ lệ sống sót và phản ứng miễn dịch của sinh vật đất, bao gồm động vật, thực vật/rau củ và hệ vi sinh vật đất như vi khuẩn. Quan trọng nhất, có thể thấy sự tích tụ vi nhựa trong môi trường đất các canh tác nông nghiệp đặt ra thách thức nghiêm trọng đối với đời sống sinh vật, các hệ sinh thái, và sức khỏe con người. 

Ở Việt Nam, những thông số ban đầu về ô nhiễm vi nhựa cho thấy các hoạt động sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp có thể là nguồn gây gây ô nhiễm. Điều này làm nổi bật nguy cơ ô nhiễm tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến môi trường và gây ra mối đe dọa đối với sức khỏe con người. Với những tác động tiềm ẩn nhưng hệ trọng này, việc khảo sát hiện trạng ô nhiễm, đánh giá rủi ro của chúng càng thêm phần cấp thiết, đặc biệt với các đồng bằng canh tác nông nghiệp quan trọng, trong đó có cả các đồng bằng của Việt Nam.

Việt Nam cần thực hiện các nghiên cứu quan trắc, lập bản đồ phân bố mức độ nhiễm bẩn vi nhựa trong đất nông nghiệp trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt ở các điểm nóng và tại các vùng chuyên canh nông nghiệp. 

Rõ ràng, những thông tin về ô nhiễm nhựa ở các diện tích canh tác nông nghiệp Việt Nam vẫn còn quá sơ khởi, không chỉ ở hiện trạng mà còn những thông số quan trọng liên quan để tiến tới trả lời được những câu hỏi bao quát lẫn cụ thể: những nơi nào tích tụ nhiều vi nhựa nhất? sự phân bố của vi nhựa theo không gian và thời gian như thế nào? hàm lượng vi nhựa cao hay thấp so với một số đồng bằng trong và ngoài khu vực Đông Nam Á? nguồn nào là tác nhân ô nhiễm nghiêm trọng nhất? độc chất trong vi nhựa ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật đất như thế nào? liệu vi nhựa có ảnh hưởng đến cây trồng không, nếu có thì cơ chế gì? Có vô vàn câu hỏi cần được trả lời và để trả lời được, cần có nhiều nghiên cứu theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

Tuy nhiên, trước khi đi đến những câu trả lời thấu đáo như mong muốn, trước hết chúng ta cần xây dựng dựng bức tranh toàn diện về mức độ ô nhiễm vi nhựa trong môi trường đất nông nghiệp ở Việt Nam, một mục tiêu mà những bước đi đầu là thực hiện các nghiên cứu quan trắc, lập bản đồ phân bố mức độ nhiễm bẩn vi nhựa trong đất nông nghiệp trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt ở các điểm nóng và tại các vùng chuyên canh nông nghiệp. Đó cũng là cơ sở quan trọng để tiến hành các bước đi tiếp theo như xác định nguồn gốc ô nhiễm, dựa vào đặc điểm ở từng địa phương và đánh giá, phân hạng rủi ro của vi nhựa đối với môi trường sinh thái và sức khỏe con người. Chẳng hạn như tập trung xem xét các nguồn phát thải chính từ phân bón, màng phủ nông nghiệp và hiện trạng tưới tiêu nông nghiệp để hiểu rõ hơn cơ chế lan truyền cũng như tác động đến chất lượng đất, cây trồng và các vấn đề rủi ro sức khỏe. Cuối cùng, như một giải pháp rất quan trọng cần phải đề xuất các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm và nâng cao nhận thức cộng đồng về chủ đề này.

Có thể thấy, cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, Việt Nam chưa có hệ thống quản lý rác thải nông nghiệp hiệu quả để thu gom, xử lý lượng lớn rác thải nhựa. Do đó, chất thải nhựa thường xuyên bị vứt bỏ không kiểm soát và cuối cùng tích tụ vào môi trường và các hệ sinh thái. Chất thải nhựa và sự phân hủy thành vi nhựa có nguồn gốc từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp ngày càng đáng báo động. Để hạn chế phát thải nhựa và vi nhựa trong đất nông nghiệp, chúng ta có thể quan tâm nhiều hơn đến kiểm soát các nguồn rác thải nhựa tại nguồn, tăng cường nâng cao nhận thức cộng đồng và thay đổi hành vi của người nông dân. Xa hơn, cần thiết các hoạt động đánh giá rủi ro sinh thái và nghiên cứu đề xuất các nhóm giải pháp quản lý, chiến lược phòng ngừa và giảm thiểu phù hợp các địa phương, hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc (SDGs), đặc biệt trong bối cảnh phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam.

25/9/25

Ngành Nông nghiệp và Môi trường tập trung vào 7 nhiệm vụ then chốt để tạo đột phá về khoa học và công nghệ

 Ngành Nông nghiệp và Môi trường tập trung vào 7 nhiệm vụ then chốt để tạo đột phá về khoa học và công nghệ

Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, tập trung vào thúc đẩy ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo vào quản lý nông nghiệp, xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường; xây dựng, vận hành hệ thống thông tin đất đai, số hóa hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính

Chiều 5/5/2025, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức họp báo thông tin về kế hoạch của Bộ nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Thông tin tại buổi họp báo, ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết triển khai thực hiện Nghị quyết 57; Nghị quyết số 193/2025/QH15 của Quốc hội (ban hành ngày 19/2/2025; Nghị quyết số 03/NQ-CP của Chính phủ (ban hành ngày 9/1/2025), mới đây Bộ Nông nghiệp và Mội trường đã ban hành Quyết định số 503/QĐ-BNNMT về Kế hoạch đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tập trung vào 7 nhiệm vụ then chốt để tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Thứ nhất, nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, quyết tâm chính trị mạnh mẽ trong toàn ngành Nông nghiệp và Môi trường về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Trong đó, xây dựng kế hoạch và tổ chức điều chỉnh, bổ sung yêu cầu vị trí việc làm đối với lãnh đạo cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, bảo đảm tối thiểu 25% tổng số lãnh đạo các cơ quan, đơn vị có chuyên môn, kinh nghiệm về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.  

Thứ hai, hoàn thiện thể chế, đưa thể chế thành một lợi thế cạnh tranh trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Bộ sẽ tập trung vào rà soát, sửa đổi, bổ sung 17 Luật chuyên ngành Nông nghiệp và Môi trường nhằm đảm bảo sự thống nhất, kịp thời tháo gỡ điểm nghẽn, đơn giản hoá tối đa các thủ tục hành chính; Rà soát điều chỉnh các quy trình nội bộ trên hệ thống điện tử để thay thế giấy tờ khi thực hiện các thủ tục hành chính; cắt giảm các thành phần hồ sơ khi số liệu đã được số hoá.

Thông tin rõ hơn về nội dung này, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang quản lý 1.832 TCVN và 175 QCVN (lĩnh vực nông nghiệp có 1.464 TCVN và 103 QCVN; lĩnh vực môi trường có 368 TCVN và 72 QCVN). Hệ thống TCVN và QCVN đã cơ bản bao quát đầy đủ các chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành. Tuy nhiên, Bộ đã chỉ đạo tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung xây dựng các quy chuẩn, tiêu chuẩn theo hướng đồng bộ, hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế

Thứ ba, tăng cường đầu tư, hoàn thiện hạ tầng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tập trung vào thúc đẩy ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo vào quản lý nông nghiệp; Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ số trong sản xuất (blockchain truy xuất nguồn gốc, IoT giám sát môi trường, AI dự báo dịch bệnh, thời tiết.

Mặt khác, sẽ xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu tài nguyên và môi trường; xây dựng, vận hành hệ thống thông tin đất đai (MPLIS), số hóa hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ sở dữ liệu nền địa lý quốc gia và các cơ sở dữ liệu quan trọng, cấp bách tạo nền tảng phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, đô thị thông minh.

Thứ tư, phát triển, trọng dụng nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đặc biệt là việc thu hút, trọng dụng, giữ chân các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu khoa học công nghệ, phát triển công nghệ trí tuệ nhân tạo và đào tạo nguồn nhân lực.

Thứ năm, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng, đẩy mạnh loại hình cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình; cấp giấy phép tự động, cung cấp dịch vụ số mới được cá nhân hóa, dựa trên dữ liệu cho người dân và doanh nghiệp.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường phấn đấu bảo đảm mục tiêu của Chính phủ đến năm 2030 đạt, đảm bảo trên 90% thủ tục hành chính liên quan đến doanh nghiệp được thực hiện trực tuyến, thông suốt, hiệu quả. Phát triển các ứng dụng trí tuệ nhân tạo hỗ trợ phân tích, cảnh báo thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường và phòng chống dịch bệnh, tạo điều kiện cho phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp, khai thác bền vững tài nguyên.

"Từ năm 2021 - 2025, tổng cộng trên 1.201 chương trình, dự án, đề án, nhiệm vụ khoa học công nghệ đã và đang được triển khai. Nhiều nhiệm vụ khoa học công nghệ tạo ra sản phẩm cuối cùng và được cơ quan thẩm quyền chấp nhận, chuyển giao, ứng dụng vào sản xuất, phục vụ công tác quản lý, đóng góp vào tăng hiệu quả kinh tế khoảng 30%, Trong 5 năm qua, đã công nhận được 461 giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, lâm nghiệp; 216 tiến bộ kỹ thuật; 34 bằng độc quyền sáng chế và 19 giải pháp hữu ích”. Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông  nghiệp và Môi trường.

Thứ sáu, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trong doanh nghiệp về nông nghiệp và môi trường. Theo đó, Bộ sẽ rà soát, đề xuất chính sách ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp, ưu tiên đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ kinh doanh đầu tư cho chuyển đổi số, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, quản trị doanh nghiệp.

Thứ bảy, tăng cường hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số dưới các hình thức đa phương, song phương với các quốc gia, vùng lãnh thổ, các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia, các viện nghiên cứu, trường đại học hàng đầu thế giới về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Cao lương ngọt và công nghệ nano: giải pháp đột phá trong sản xuất bioethanol hướng tới phát triển bền vững

Cao lương ngọt và công nghệ nano: giải pháp đột phá trong sản xuất bioethanol hướng tới phát triển bền vững

P.T.T  - NASTIS

Trong bối cảnh nguồn nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt và biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, việc tìm kiếm nguồn năng lượng bền vững trở nên cấp thiết. Nhiên liệu sinh học (biofuel) được xem là một giải pháp tiềm năng, giúp giảm thiểu khí thải nhà kính và đảm bảo an ninh năng lượng. Bioethanol, một loại nhiên liệu sinh học phổ biến, có thể sản xuất từ nhiều nguồn nguyên liệu như ngô, mía và cao lương ngọt. Trong số đó, cao lương ngọt nổi bật với tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng chịu hạn tốt và hàm lượng đường cao trong thân, trở thành ứng viên sáng giá cho sản xuất bioethanol.

Tiềm năng vượt trội của cao lương ngọt trong ngành sản xuất Bioethanol

Bioethanol đang chiếm lĩnh thị trường nhiên liệu sinh học toàn cầu, với sản lượng tăng trưởng ấn tượng. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, cần có sự gia tăng đáng kể trong sản xuất nhiên liệu sinh học, đặc biệt là từ các nguồn nguyên liệu tiên tiến. Trong bối cảnh đó, cao lương ngọt nổi lên như một ứng cử viên đầy hứa hẹn, nhờ những đặc tính ưu việt như khả năng thích ứng cao, có thể phát triển tốt trong điều kiện khô hạn, giúp tiết kiệm nguồn nước tưới tiêu quý giá; hiệu suất sản xuất tối ưu do thân cây chứa hàm lượng đường cao (12-20%), tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lên men bioethano; năng suất sinh khối ấn tượng, đạt trung bình 50-80 tấn/ha, đảm bảo nguồn cung nguyên liệu dồi dào; chu kỳ sinh trưởng ngắn với thời gian thu hoạch chỉ từ 3-5 tháng, nhanh hơn nhiều so với mía đường (12-18 tháng), giúp tăng vòng quay sản xuất. Bên cạnh đó, chi phí sản xuất thấp, không đòi hỏi đất canh tác màu mỡ và ít phụ thuộc vào phân bón hóa học, giúp giảm đáng kể chi phí đầu vào so với ngô và mía đường.

Những ưu điểm này không chỉ giúp cao lương ngọt trở thành nguồn nguyên liệu hiệu quả cho sản xuất bioethanol, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành năng lượng.

Các phương pháp sản xuất bioethanol từ cao lương ngọt

Có nhiều phương pháp để sản xuất bioethanol từ cao lương ngọt, bao gồm:

- Lên men từ nước ép thân cây: Thân cao lương chứa lượng đường cao, có thể được ép lấy nước để lên men trực tiếp thành ethanol.

- Sử dụng tinh bột từ hạt: Hạt cao lương chứa tinh bột có thể chuyển đổi thành đường thông qua quá trình thủy phân enzyme, sau đó lên men thành ethanol.

- Chuyển hóa lignocellulose từ bã thải: Phần bã sau khi ép nước có thể được xử lý bằng phương pháp hóa học hoặc enzyme để tách cellulose và hemicellulose thành đường đơn, sau đó lên men thành ethanol.

Mỗi phương pháp đều có ưu và hạn chế nhất định, trong đó quá trình thủy phân lignocellulose là phức tạp nhất do yêu cầu công nghệ cao.

Ứng dụng công nghệ nano trong sản xuất bioethanol

Công nghệ nano đang được nghiên cứu và ứng dụng để nâng cao hiệu suất sản xuất bioethanol từ cao lương ngọt. Một số công nghệ quan trọng bao gồm:

- Nanoenzyme: Cố định enzyme lên bề mặt hạt nano giúp thủy phân cellulose và hemicellulose nhanh hơn, cải thiện hiệu quả chuyển đổi sinh khối thành đường lên men.

- Nanoparticles (NPs): Các hạt nano được sử dụng để cải thiện quá trình tiền xử lý sinh khối, giúp phá vỡ cấu trúc lignocellulose hiệu quả hơn và giảm lượng enzyme cần thiết trong quá trình thủy phân.

- Nano cảm biến: Cho phép giám sát và điều chỉnh quá trình lên men theo thời gian thực, giúp tối ưu hóa hiệu suất sản xuất ethanol.

Nghiên cứu của Oraby et al. (2023) cho thấy rằng việc sử dụng hạt nano oxit kim loại trong tiền xử lý sinh khối có thể tăng hiệu suất thủy phân cellulose lên đến 30% so với các phương pháp truyền thống. Ngoài ra, ứng dụng nanoenzyme có thể giảm 40% lượng enzyme cần thiết để sản xuất bioethanol, giúp giảm chi phí đáng kể.

Thách thức và cơ hội

Mặc dù công nghệ nano mang lại nhiều lợi ích trong sản xuất bioethanol, nhưng vẫn tồn tại một số thách thức như (i) Việc ứng dụng công nghệ nano yêu cầu các thiết bị tiên tiến và chi phí nghiên cứu phát triển lớn; (ii) Các quốc gia đang phát triển có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận và triển khai công nghệ nano vào sản xuất quy mô lớn; (iii) Một số vật liệu nano có thể gây tác động đến hệ sinh thái nếu không được xử lý đúng cách. Tuy nhiên, với những tiến bộ trong nghiên cứu và chính sách hỗ trợ từ chính phủ, công nghệ nano hứa hẹn sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thương mại hóa sản xuất bioethanol bền vững.

Tóm lại, sản xuất bioethanol từ cao lương ngọt kết hợp với công nghệ nano là hướng đi tiềm năng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Nhờ vào khả năng sinh trưởng nhanh, chi phí thấp và hiệu suất sinh khối cao, cao lương ngọt có thể trở thành một giải pháp thay thế bền vững cho các nguồn nhiên liệu hóa thạch. Việc áp dụng công nghệ nano trong quá trình sản xuất giúp nâng cao hiệu suất chuyển đổi sinh khối, giảm chi phí và tối ưu hóa hiệu quả sản xuất ethanol. Mặc dù còn nhiều thách thức, nhưng với những tiến bộ trong nghiên cứu và đầu tư công nghệ, cao lương ngọt có thể trở thành một trong những nguồn nguyên liệu hàng đầu cho ngành công nghiệp bioethanol trong tương lai.

Đông Nam Á: Cần nội địa hóa công nghệ nông nghiệp

 Đông Nam Á: Cần nội địa hóa công nghệ nông nghiệp

Hồng Hạnh - KHPT

Để nâng cao năng suất, thích ứng với biến đổi khí hậu và đảm bảo an ninh lương thực vào năm 2050, các quốc gia Đông Nam Á phải nhanh chóng áp dụng các công nghệ nông nghiệp mới, kết hợp với đầu tư và đào tạo nông dân.

Báo cáo của Viện Tài nguyên Thế giới (WRI) chỉ ra rằng năng suất nông nghiệp cần tăng ít nhất 100% để đáp ứng nhu cầu lương thực toàn cầu vào năm 2050. Nếu không được tối ưu hóa, tình trạng khan hiếm lương thực có thể trầm trọng hơn do nhiều nguyên nhân như phân phối không đồng đều, biến đổi khí hậu gia tăng, suy giảm lao động nông nghiệp và năng suất khác biệt giữa các khu vực.

Chẳng hạn, ở Thái Lan, tỷ lệ nông dân trẻ (15 - 40 tuổi) đã giảm mạnh, từ 48% năm 2013 xuống chỉ còn 32% trên tổng số nông dân vào năm 2023.

Ở giữa biển đảo, Philippines đang vật lộn với tác động của biến đổi khí hậu, gây ra mùa vụ thất thường và tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả. Trong khi đó, Indonesia loay hoay với nền nông nghiệp dựa chủ yếu vào các hộ nhỏ lẻ, và nông dân khó tiếp cận thị trường.

Tương tự, Việt Nam cũng đang chứng kiến sự di cư mạnh mẽ của lao động trẻ từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm việc làm có thu nhập cao hơn, bỏ lại phía sau khu vực nông thôn thiếu lực lượng kế cận đủ khả năng tiếp cận và áp dụng công nghệ mới.

Mặc dù vậy, Đông Nam Á vẫn dẫn đầu thế giới về sản xuất lúa gạo và một số mặt hàng nông sản khác. Nhưng việc ổn định sản xuất lương thực của khu vực này không chỉ là yếu tố sống còn cho an ninh lương thực của mỗi quốc gia mà còn ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng quốc tế. Vì vậy, việc áp dụng công nghệ mới trong nông nghiệp là một nhu cầu cấp thiết.

Vai trò của công nghệ nông nghiệp

Công nghệ nông nghiệp (Agritech) ngày càng thông minh hơn, nhưng đối với nhiều nông dân Đông Nam Á, nó vẫn nằm ngoài tầm với. Không phải vì họ không muốn dùng mà vì mức giá quá cao. Chẳng hạn, một chiếc máy bay không người lái (UAV) phun thuốc trừ sâu có giá khoảng 120–350 triệu đồng, trong khi một chiếc UAV chuyên dùng để giám sát cây trồng với công nghệ 4.0 tích hợp dữ liệu đa phổ phân tích có thể còn có chi phí cao hơn.

Với chi phí thế này, cách nông hộ nhỏ thường bị gạt ra khỏi cuộc các mạng công nghệ. Họ phải dựa vào các phương thức canh tác truyền thống vừa tốn thời gian, vừa kém hiệu quả và khó duy trì.

Đấy là lý do tại sao các cuộc thảo luận về công nghệ nông nghiệp không nên chỉ dừng ở việc chọn công nghệ nào, mà còn phải bàn cách làm sao để công nghệ ấy trở nên vừa túi tiền, phù hợp với trình độ và nhu cầu thực tế của nông dân.

Chẳng hạn, ở lĩnh vực canh tác chính xác, thay vì sử dụng các cảm biến đắt tiền, nông hộ có thể sử dụng các ứng dụng lập bản đồ dựa trên điện thoại thông minh, cảm biến dùng chung hoặc các bộ dụng cụ kiểm tra đất giá rẻ. Enfarm là một startup đang thử nghiệm những giải pháp tiết kiệm như vậy để đo dinh dưỡng đất cho những đồn điền cà phê và sầu riêng ở Tây Nguyên.

Trong lĩnh vực tưới tiêu thông minh, nếu trang trại có thể lắp đặt một hệ thống IoT toàn diện thì cực kỳ lý tưởng. Nhưng nếu không đủ điều kiện, họ cũng có thể chọn những giải pháp nhỏ hơn như máy bơm chạy bằng năng lượng Mặt trời, bộ điều khiển đo độ ẩm và tự động kích hoạt khi đất khô, hoặc các hệ thống tưới tiêu chung do hợp tác xã quản lý.

Với các công nghệ sau thu hoạch, rõ ràng sẽ tiết kiệm chi phí hơn khi có các mô hình chia sẻ như kho lạnh cộng đồng, kho thuê theo nhu cầu, máy sấy năng lượng Mặt trời, pin cát, hoặc thậm chí là quy trình chế biến chung cho nhiều nhà xưởng.

Ở Việt Nam, dưới sự hỗ trợ của CSIRO (Úc), các nhà khoa học đã thử phát triển một quy trình quy trình chế biến bơ, chanh leo, sầu riêng ngay gần trang trại, tạo ra các sản phẩm cô đặc hoặc dạng sệt ổn định ở nhiệt độ phòng. Điều này giúp người nông dân giảm phụ thuộc vào chuỗi lạnh và tăng các sản phẩm trung gian có thể áp dụng rộng rãi trong ngành thực phẩm. Các nhà khoa học cho biết, quy trình và thiết bị sẽ khá đơn giản, hoàn toàn phù hợp cho các xưởng nhỏ vận hành.

Không thể không nhắc đến các chợ nông sản số, các sàn giao dịch thương mại điện tử - nơi người nông dân và thương hộ có thể khai thác sức mạnh tiềm năng của thông tin và công nghệ số. Các chuyên gia cho rằng những ứng dụng hiện đại sẽ phát huy hiệu quả nhất khi đi kèm với những giải pháp đơn giản, thân thiện với người dùng như đặt hàng qua tin nhắn, chat, voucher điện tử và thanh toán đa kênh.

Điều quan trọng là tìm ra sự kết hợp phù hợp giữa công nghệ, mô hình tài chính và đặc điểm địa phương, cho dù đó là thuê thiết bị, tham gia hợp tác xã hay chỉ thanh toán khi dùng dịch vụ. Rốt cuộc,không có chiếc áo chung cho tất cả các trang trại, những gì phù hợp với một nông dân trồng lúa ở Thái Lan sẽ không nhất thiết phải phù hợp với một người trồng dừa ở Philippines.

Can thiệp toàn diện

Trong bối cảnh nông nghiệp Đông Nam Á vẫn chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ, manh mún và thiếu tập trung, những thách thức về mặt cấu trúc là điều khó tránh khỏi. Các nông hộ thường ưu tiên lợi nhuận ngắn hạn, dùng phần lớn thu nhập để trang trải sinh hoạt hằng ngày thay vì tái đầu tư cho vụ mùa tiếp theo. Tư duy mang tính tự cung tự cấp đó tạo ra một rào cản quan trọng đối với việc phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp bền vững.

Để giải quyết thách thức, chính quyền buộc phải có các chương trình can thiệp toàn diện, với sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, startup và trung tâm đào tạo nghề. Các chương trình sẽ không chỉ dừng ở việc đào tạo kỹ thuật và ứng dụng công nghệ, mà còn phải tập trung nâng cao kiến thức tài chính và kỹ năng kinh doanh để nông hộ có thể phát triển nông nghiệp như một doanh nghiệp thực thụ. Chương trình Nông nghiệp 4.0 của Thái Lan là một ví dụ như vậy.

Về mặt phân phối, chuỗi cung ứng cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nông sản đến bàn ăn của mọi người. Ở Indonesia, với hàng nghìn hòn đảo, phân phối là bài toán nan giải. Ngay cả những nền tảng thương mại điện tử nông sản lớn như Sayurbox và Segari mới chỉ hoạt động ở một số thành phố lớn, chưa vươn ra toàn quốc do chi phí kho bãi, logistics quá cao. Tình trạng này cho thấy nhu cầu cấp bách cần có nhiều nền tảng địa phương hơn xuất hiện ở các vùng khác nhau để lấp đầy khoảng trống. Các nền tảng này cũng sẽ cần các khoản đầu tư lớn vào việc hỗ trợ nông hộ nhỏ lẻ tham gia thị trường.

Cuối cùng là việc tạo điều kiện cho các startup công nghệ nông nghiệp và những nhà đầu tư quan tâm đến việc rót vốn vào lĩnh vực này. Họ là bộ đôi thường đi kèm với nhau, trong đó sự tăng trưởng của một bên sẽ thúc đẩy sự tham gia của bên còn lại.

Người theo dõi

Mời bạn cùng lên đường!

Mời bạn cùng lên đường!