NGHIÊN CỨU BÓN PHÂN CHO CÂY ĐIỀU GHÉP
Đỗ Trung Bình, Đặng Văn Tự, Nguyễn Lương Thiện
1. MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, cây điều được mở rộng diện tích ở một số tỉnh các vùng Nam Trung bộ (NTB), Tây Nguyên (TN) và Đông Nam bộ (ĐNB). Điều vừa là cây công nghiệp dài ngày, vừa là cây ăn quả, vừa là cây giữ đất, chống xói mòn, phủ xanh đất trống. Cây điều có thể trồng được trên nhiều loại đất khác nhau, ở các độ cao khác nhau. Nhưng trồng điều theo hướng thâm canh cần chọn đất có tầng dày trên 70 cm, đất giàu chất hữu cơ và dinh dưỡng, pH từ 5-7, thoát nước tốt, không bị úng hoặc nhiễm phèn, mặn, độ cao dưới 700 m, lượng mưa hàng năm trên 900mm và không có mùa đông lạnh.
Diện tích trồng điều của cả nước niên vụ 2010-2011 là 391,5 nghìn héc-ta (giảm 7 nghìn héc-ta so với 2009 và giảm 52,8 nghìn héc-ta so với năm 2006). Diện tích cho thu hoạch năm 2010 là 340 nghìn héc-ta, năng suất bình quân đạt 8,6 tạ/ha (riêng các vườn điều cao sản đạt 10,5-40 tạ/ha). Sản lượng khoảng 291,5 nghìn tấn (Hiệp hội Điều, 2011). Việt Nam trong bốn năm liên tục từ 2006 đến 2009 đứng vị trí số một thế giới về xuất khẩu nhân điều. Hạt điều Việt Nam xuất khẩu đến 40 thị trường và vùng lãnh thổ. Theo Hiệp hội Điều Việt Nam (VINACAS), sự gia tăng về sản lượng và năng suất điều nhờ việc mở rộng diện tích trồng các giống điều mới và ứng dụng quy trình kỹ thuật thâm canh vườn điều (VINACAS, 2006, 2007, 2008 và 2009).
Thực tế sản xuất cho thấy phần lớn cây điều được trồng ở những vùng đất xấu: đất xám bạc màu, đất bị laterit hóa, đất cát ven biển, hơn nữa nông dân trồng điều thường nghèo nên việc bón phân chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho cây điều không được đầu tư đúng mức. Trong khi đó hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây mới tập trung vào chọn tạo và phát triển giống. Gần đây một số tài liệu viết về cây điều thường ở dạng tài liệu hướng dẫn kỹ thuật chủ yếu dựa trên kinh nghiệm hay các tài liệu nước ngoài do đó chưa thực sự phù hợp với điều kiện sản xuất nước ta.
Một số kết quả nghiên cứu ở nước ngoài về dinh dưỡng cho cây điều cho thấy: hàm lượng N, P 2 O 5 , K 2 O hấp thụ trong một cây điều 30 năm tuổi (kg/cây/năm) là 2,58 kg N + 0,76 kg P 2 O 5 + 1,26kg K 2 O trong đó quả và hạt hấp thụ 1,13 kg N + 0,35 kg P 2 O 5 + 0,46 kg K 2 O (Mohapatra và cộng sự, 1982). Hàm lượng N, P, K qua phân tích lá cây điều ở Ấn Độ là: trước khi ra quả 1,41% N; 0,09% P; 0,63% K và sau khi ra quả 1,49% N; 0,12% P; 0,79% K (Kumar và cộng sự, 1982).
Kết quả nghiên cứu ở các nước trồng điều nổi tiếng (Ấn Độ, Brazil, Tanzania) đều khẳng định cây điều phản ứng tốt với phân bón, đặc biệt với đạm và lân. Trong khi với kali, các kết quả không rõ và chưa có các nghiên cứu sâu. Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia về cây điều ở Karnataka (Ấn Độ) đã xác định công thức phân bón hợp lý cho cây điều (g/cây/năm): năm thứ nhất 170 gN – 40 gP 2 O 5– 40 gK 2 O, năm thứ hai 350 gN – 80 gP 2 O 5 – 80 gK 2 O, năm ba và năm thứ tư trở đi 500 gN – 125 gP 2 O 5 – 125 gK 2 O, từ 15 - 20 năm 750 gN – 250 gP 2 O 5 – 250 gK 2 O, lượng phân được chia đều cho hai lần bón vào đầu và cuối mùa mưa khi đất có độ ẩm thích hợp nhất.Theo Mathew Thomas (1982), trong năm thứ nhất cần bón một lượng 84 gN – 42 gP 2 O 5 – 42 gK 2 O (g/cây/năm) và tăng gấp đôi trong năm thứ hai, cây trưởng thành bón một lượng 250 gN –125gP 2 O 5 – 125gK 2 O (g/cây/năm), những cây cho năng suất nhiều hơn có thể tăng tới 500 g N/cây/năm.
Theo Package of Practices for cashew ICAR, Kumar (1982), bón phân cụ thể cho cây điều như sau: năm thứ nhất 100 gN – 80 gP 2 O 5 , năm thứ hai 200 gN – 120 gP 2 O 5 – 120 gK 2 O, năm thứ ba 400 gN – 120 gP 2 O 5 – 120 gK 2 O, năm thứ tư trở đi 500 gN – 120gP 2 O 5 – 120 gK 2 O (g/cây/năm), một năm chia làm hai lần bón. Lần bón một vào tháng 5, 6 và lần bón hai vào tháng 9, 10.
Những kết quả nghiên cứu trong nước đã đưa ra khuyến cáo liều lượng N + P 2 O 5 + K 2 O bón cho cây điều (g/cây/năm): năm thứ nhất 60+20+20; năm thứ hai 125+30+40; năm thứ ba 200+40+60; từ năm thứ tư trở đi 250+50+75 (Hoàng Chương, Cao Vĩnh Hải, 1998; Đường Hồng Dật, 1999). Phân bón cho cây điều giai đoạn kiến thiết cơ bản (KTCB) và cây điều kinh doanh N, P 2 O 5 , K 2 O-g/cây/năm: năm thứ nhất 100-150, 100-150, 60-80; năm thứ hai 200-250, 200-250, 100-150; năm thứ ba 300-350, 300-350, 150-200; từ năm thứ tư trở đi 500-1200, 250-600, 250-600 (Nguyễn Xuân Trường & cộng sự, 2000). Tuy nhiên, hiện trạng bón phân cho cây điều ở các vùng trồng điều rất khác nhau nhưng luôn thấp hơn mức khuyến cáo, thậm chí nhiều vườn điều không được bón phân, vì vậy năng suất điều bình quân còn khá thấp. Một số kết quả nghiên cứu về ứng dụng phân bón lá và chất điều hòa sinh trưởng cũng đã được một số tác giả nghiên cứu, đạt được những kết quả có giá trị bước đầu trên một số giống điều: Nguyễn Văn Uyển (1999), Lê Văn Tri (2000), Phạm Văn Côn (2003).
Các kết quả nghiên cứu trên đây đã đóng góp tích cực cho chương trình phát triển cây điều ở Việt Nam trong thời gian qua, tuy nhiên những khuyến cáo về liều lượng phân bón còn mang tính đại trà, chưa gắn với từng vùng sinh thái vốn có những đặc thù khác nhau về điều kiện đất đai, giống và những tiến bộ mới trong kỹ thuật canh tác.
Trong giai đoạn 2002-2010, Viện KHKTNN miền Nam đã thực hiện những nghiên cứu quy mô hơn về phân bón cho cây điều, đề tài nhánh: “Nghiên cứu quy trình kỹ thuật bón phân cân đối cho cây điều trên đất đỏ và đất xám vùng Đông Nam bộ” thuộc đề tài cấp Nhà nước KC.06.04.NN (Phạm Văn Biên, Nguyễn Thanh Bình và ctv); Đề tài: “Nghiên cứu chọn tạo giống điều và xây dựng biện pháp kỹ thuật sản xuất tiên tiến thích hợp cho các vùng trồng điều chính” (Đỗ Trung Bình, Nguyễn Tăng Tôn, Đặng Đức Hiền, 2010). Các đề tài trên đã được nghiệm thu, những kết quả dưới đây chỉ giới thiệu phần nghiên cứu về dinh dưỡng cho cây điều.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét